Rối loạn điện giải
1. Hạ natri máu
Được gọi là hạ natri máu khi nồng độ natri huyết thanh thấp hơn 130 mmol/L. Thường thì chỉ khi nào nồng độ natri máu thấp hơn 125 mmol/L mới gây nên những rối loạn thần kinh nặng. Ở trẻ sơ sinh cực non và sơ sinh nguyên nhân hạ natri máu là tăng mất trong khi lượng cung cấp lại không đủ.
Na+ cần bù (mmol/L) = ([Na+] muốn đạt được- [Na+] bệnh nhân) x 0.6 x trọng lượng (kg)
Khi hạ natri có triệu chứng (co giật hoặc Natri < 120 mmol/L, bù natri theo công thức: Na+ cần bù (mmol/L) = (125 mmol/L- [Na+] bệnh nhân) x 0.8 x trọng lượng (kg) trong 3 đến 6 giờ bằng dung dịch NaCl 3%, sau đó bù lượng thiếu hụt trong 24 giờ tiếp theo trong dịch nuôi dưỡng.
Trong trường hợp hạ natri máu không triệu chứng thì bù một nửa lượng natri thiếu hụt trong 6 đến 8 giờ và lượng còn lại trong 24 giờ tiếp theo trong dịch nuôi dưỡng.
.2. Tăng natri máu
Chẩn đoán tăng natri máu khi nồng độ natri huyết thanh cao hơn 145 mmol/L. Tăng natri nặng nề > 160 mmol/L có thể gây nên những tổn thương thần kinh trung ương vĩnh viễn. Tăng natri máu thường gặp nhất trong những ngày đầu sau sinh ở trẻ sơ sinh non tháng và thường là hậu quả của cung cấp nước không đủ bù lại lượng nước mất không nhận biết. Không nên hạ natri máu nhanh quá 10 mmol/L trong 12 giờ vì có nguy có gây nên co giật và những tổn thương thần kinh trung ương không hồi phục.
Nước thiếu hụt = (0,6 x trọng lượng BN) x (Na+ BN – Na+ mong muốn)/Na+ mong muốn
.3. Hạ kali máu
Hạ kali máu được định nghĩa là kali huyết thanh thấp hơn 3,5 mmol/L. Trừ trường hợp trẻ đang được điều trị bằng digitalis, hạ kali máu ít khi gây nên những biến chứng nguy hiểm nếu nồng độ kali huyết thanh vẫn ≥ 3,0 mmol/L. Hạ kali máu thường do lợi tiểu, ỉa chảy, khiếm khuyết ở thận; lượng K+ đưa vào không đủ; giảm K+ ngoại bào do nhiễm kiễm chuyển hóa. Điều trị hạ kali máu chủ yếu là điều trị nguyên nhân gây hạ kali. Không bao giờ được dùng kali bơm tĩnh mạch hoặc liều bolus vì có nguy cơ gây loạn nhịp nguy hiểm. Trong trường hợp cực kỳ khẩn cấp có thể truyền nhanh nhưng tốc độ không quá 0,3 mmol/kg trong 20 phút.
.4. Tăng kali máu
Gọi là tăng kali máu khi nồng độ kali huyết tường cao hơn 6 mmol/L. Nhìn chung, tăng kali máu thường nguy hiểm hơn hạ kali máu nhất là khi kali cao hơn 6,5 mmol/L hoặc có những biến đổi trên điện tâm đồ. Nguyên nhân tăng kali máu bao gồm phóng thích kali từ các neuron bị tổn thương, do dung giải hồng cầu sau xuất huyết trong não thất, chấn thương và tan huyết nội mạch. Nhiễm toan chuyển hóa nặng (tăng chuyển kali từ nội bào ra ngoại bào) và giảm thải kali qua thận cũng góp phần làm tăng kali huyết thanh. Tăng kali máu cũng là một trong những dấu hiệu sớm nhất của tăng sản thượng thận bẩm sinh.
Xử trí tăng kali máu gồm ổn định bệnh nhân theo các bước ABC, ngừng tất cả nguồn cung cấp kali (truyền dịch, truyền máu, thay máu) và điều trị nguyên nhân (ví dụ điều trị sốc, kháng sinh trong nhiễm trùng huyết, điều trị hạ natri máu, hydrocortisone trong tăng sản thượng thận bẩm sinh, điều trị suy thận). Có thể truyền kết hợp glucose-insulin: 0,3 g/kg glucose + 0,1 đơn vị insulin trong vòng 30 phút (hiệu quả ngắn hạn nhằm tăng vận chuyển kali vào nội bào). Trong trường hợp có thay đổi hình dạng sóng trên điện tâm đồ (đặc biệt là trong truyền máu) thì lập tức dùng calcium gluconate 10% 1ml/kg tiêm TM chậm (3-5 phút) sau đó truyền liên tục 4ml/kg/24h (theo dõi điện tâm đồ). Kiềm hóa máu bằng natribicarbonate: 1mmol/kg giảm kali huyết thanh xuống 1 mmol/l (tác dụng ngắn hạn). Salbutamol 4 μg/kg trong 5ml dung dịch trong 20 phút (tác dụng kéo dài khoảng 120 phút) hoặc hít albuterol (liều 400 μg cách nhau mỗi 2h) cũng có tác dụng làm giảm kali máu. Cần nhập viện để làm các xét nghiệm chẩn đoán nguyên nhân cũng như xử trí tiếp tục.
.5. Hạ calci máu
Hạ calci máu thường gặp hơn tăng calci máu và được định nghĩa khi nồng độ calci huyết thanh toàn phần thấp hơn 1,75 mmol/L hoặc calci ion hóa thấp hơn 0,63 mmol/L. Hạ calci máu thể sớm xuất hiện trong vòng ba ngày đầu sau sinh ở trẻ sinh non, mẹ đái đường không được điều trị đúng hoặc trẻ bị ngạt. Hạ calci máu thể muộn xuất hiện sau một tuần và thường có liên quan đến các tình trạng làm tăng phospahte máu như suy cận giáp, mẹ sử dụng các thuốc chống co giật và thiếu vitamin D. Triệu chứng bao gồm tăng tính kích thích toàn thân: rung rẩy cơ, tăng phản xạ gân xương, tăng kích thích quá mức, phản ứng tăng bất thường đối với các tác động bên ngoài. Khi có triệu chứng lâm sàng cần nhanh chóng dùng calcium gluconate 10% 1-2 ml/kg tiêm tĩnh mạch chậm trong 5 phút dưới monitor (nguy cơ vô tâm thu. Cần chú ý trong trường hợp điều trị digitalis). Trước khi tiêm calcium gluconate cần phải lấy máu định lượng calci máu. Tiêm calci ra ngoài lòng mạch có thể gây nên hoại tử tổ chức.
Thứ Hai, 13 tháng 10, 2008
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét